Giảm cân bền vững

4 phút đọc
Giảm cân bền vững
AI Translate
Translated by AI
Bangkok Hospital Chiang Mai

Chúng ta thường nghe phụ nữ than phiền: "Bạn béo quá!" rồi bắt đầu tìm cách giảm cân bằng nhiều phương pháp khác nhau. Điều này đã dẫn đến các xu hướng sức khỏe phổ biến, bao gồm ăn uống lành mạnh, chế độ ăn ketogenic, chế độ ăn không gluten, nhịn ăn gián đoạn, tập thể dục T25, chạy marathon và Pilates để duy trì vóc dáng. Bởi vì cả những người đam mê sức khỏe và thời trang đều đồng ý rằng "béo phì" là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe và sắc đẹp!


Về mặt y học, những người được coi là có triệu chứng "béo phì" là những người có lượng mỡ trong cơ thể bất thường, hoặc nhiều hơn mức bình thường, đến mức ảnh hưởng đến sức khỏe (WHO, 2013). Đây được coi là một yếu tố nguy cơ của các bệnh nghiêm trọng như tiểu đường, huyết áp cao, v.v. Nó cũng làm tăng nguy cơ tử vong sớm. Nhiều nghiên cứu đã nhất trí chỉ ra rằng béo phì là một trong những nguyên nhân làm giảm tuổi thọ khoảng 5-20 năm.

Chúng ta đều biết rằng giảm cân không hề dễ dàng. Và để đạt được mục tiêu giảm cân bền vững, có thể mất nhiều năm nỗ lực. Do đó, nhiều người bỏ cuộc trước khi thấy kết quả hoặc họ tăng cân trở lại, tạo ra hiệu ứng yo-yo gây hại cho sức khỏe của họ. May mắn thay, khoa học và công nghệ y tế hiện đại đã mang đến cho bệnh nhân béo phì nhiều lựa chọn hơn để giảm cân bền vững . Phẫu thuật bariatric là một thủ thuật được công nhận trên toàn thế giới và là một trong những cách hiệu quả nhất giúp những người béo phì đạt được mục tiêu giảm cân bền vững. Theo Hiệp hội Phẫu thuật Chuyển hóa và Bariatric Hoa Kỳ (ASMBS) , loại phẫu thuật này đang ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là đối với những người sống ở các thành phố lớn trên toàn thế giới. Điều này là do nó tạo ra các vết mổ nhỏ, nghĩa là ít đau hơn, ít tác dụng phụ hơn và phục hồi nhanh chóng, bệnh nhân có thể về nhà trong vòng 3-4 ngày sau phẫu thuật.

Ngoài việc đạt được mục tiêu giảm cân bền vững, phẫu thuật cắt dạ dày có thể làm giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch, tiểu đường và ung thư ( J Intern Med 2013;273:219-234).

Trong nghiên cứu triển vọng về Đối tượng Béo phì Thụy Điển (SOS) năm 2007, các nhà nghiên cứu kết luận rằng phẫu thuật cắt dạ dày làm giảm 29% tỷ lệ tử vong liên quan đến béo phì trong 10,9 năm theo dõi, là tiêu chí đánh giá chính (N Engl J Med 2007;357:741-752) . Điều này cho thấy phương pháp phẫu thuật này hiệu quả và bền vững. Điều này phù hợp với một số nghiên cứu hồi cứu khác và một phân tích tổng hợp, trong đó phát hiện ra rằng phẫu thuật cắt dạ dày có liên quan đến việc giảm 41% tỷ lệ tử vong liên quan đến béo phì trong quá trình theo dõi dài hạn (Diabetes Obes Metab 017;19:1223-1232).

Cuối cùng, việc “không béo” là một điều may mắn lớn !

Do đó, chúng ta thường nhận được lời khuyên từ các chuyên gia y tếchuyên gia dinh dưỡng rằng nên lựa chọn ăn uống đúng 5 nhóm thực phẩm theo nguyên tắc dinh dưỡng và tập thể dục thường xuyên để ngăn ngừa béo phì, tốt hơn là giảm cân sau này. Bởi vì, theo dữ liệu từ một nghiên cứu hồi cứu gần đây, mặc dù bệnh nhân béo phì đã phẫu thuật cắt dạ dày sống lâu hơn trung bình 3 năm so với bệnh nhân béo phì không phẫu thuật (95% CI 1,8-4,2), nhưng họ vẫn được coi là có nguy cơ tử vong cao hơn so với dân số chung có cân nặng bình thường nhưng không béo phì (Gastroenterology 2019;157:119-127.e1).

Nhóm nghiên cứu đặt mục tiêu nghiên cứu tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân béo phì đã trải qua phẫu thuật bariatric so với những bệnh nhân béo phì không phẫu thuật cắt dạ dày và những người bình thường không bị béo phì*. Ba nhóm tình nguyện viên đã được theo dõi trong trung bình 24 năm:

  1. Một nhóm gồm 2.007 bệnh nhân béo phì đã phẫu thuật cắt dạ dày được theo dõi trong thời gian trung bình là 24 năm.
  2. Một nhóm gồm 2.040 bệnh nhân béo phì không phẫu thuật cắt dạ dày được coi là nhóm đối chứng và được theo dõi trong thời gian trung bình là 22 năm.
  3. Một nhóm dân số chung gồm 1.135 cá nhân (nhóm Đối tượng tham chiếu ) ( với chỉ số khối cơ thể trung bình [BMI] là 2 ± 3,8, nhóm này không bị béo phì) được theo dõi trong thời gian trung bình là 20 năm.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng trong quá trình theo dõi, 457 bệnh nhân trong Nhóm 1 đã trải qua phẫu thuật bariatric đã tử vong (22,8%). Ở Nhóm 2, 539 bệnh nhân không trải qua phẫu thuật bariatric đã tử vong (26,4%), biểu thị tỷ lệ nguy cơ là 0,77 (khoảng tin cậy 95% [CI] 0,68-0,87; p <0,001). Tuy nhiên, khi xem xét các nguyên nhân gây tử vong do bệnh tật , người ta thấy rằng tử vong do bệnh tim mạch và ung thư ít xảy ra hơn so với Nhóm 2 hoặc nhóm không trải qua phẫu thuật bariatric, biểu thị tỷ lệ nguy cơ là 0,70 (95% CI 0,57-0,85) và tỷ lệ nguy cơ là 0,77 (95% CI 0,61-0,96).

Nguyên nhân tử vong phổ biến nhất trong nghiên cứu này là bệnh tim mạch (388/996 ca tử vong) và ung thư (301 ca tử vong). Nhóm phẫu thuật bariatric có số ca tử vong do tim mạch ít hơn đáng kể so với nhóm không phẫu thuật (167 so với 221; tỷ lệ nguy cơ 0,70). Ngoài ra, còn có sự giảm các trường hợp nhồi máu cơ tim (MI) (tỷ lệ nguy cơ 0,51; KTC 95% 0,33-0,79), suy tim (tỷ lệ nguy cơ 0,52; CO 95% 0,31-0,88) và đột quỵ (tỷ lệ nguy cơ 0,45; KTC 95% 0,24-0,84). Số ca tử vong do ung thư cũng giảm đáng kể (135 so với 165 ở nhóm đối chứng).

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quần thể bệnh nhân trong nghiên cứu này có nguy cơ cao hơn so với quần thể béo phì nói chung, bao gồm cả bệnh nhân tiểu đường và tăng huyết áp. Do đó, thông tin này không thể áp dụng cho những người chỉ bị béo phì với độ chính xác 100%. Hơn nữa, hạn chế của nghiên cứu này là nó không phải là một thiết kế nghiên cứu ngẫu nhiên do những hạn chế về mặt đạo đức. Các kỹ thuật phẫu thuật và công nghệ y tế đã liên tục phát triển kể từ khi nghiên cứu bắt đầu, nhưng lợi ích thu được từ nghiên cứu có thể không khác biệt đáng kể.

Liên hệ với chúng tôi để biết thêm thông tin về Phẫu thuật Bariatric .

Khoa Tiêu hóa và Gan mật

Gọi 052 089 782

Để cần thêm thông tin, vui lòng liên hệ

Gastrointestinal and Liver Clinic

Service Hours: Daily 08.00 – 17.00